Phân tích SWOT: điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức. Phân tích SWOT là một trong 5 bước tạo thành chiến lược sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, bao gồm: xác lập tôn chỉ của doanh nghiệp, phân tích SWOT, xác định mục tiêu chiến lược, hình thành các mục tiêu
Công văn 1734/TCHQ-TXNK năm 2017 về phân loại mặt hàng "máy tạo độ ẩm không khí" do Tổng cục Hải quan ban hành Căn cứ Thông tư số 14/2015/TT-BTC ngày 30 tháng 01 năm 2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn về phân loại hàng hóa, phân tích để phân loại hàng hóa, phân tích để
Cho nên cảnh vật ao thu, trời thu êm đềm, vắng lặng như chính nỗi lòng của nhà thơ vậy: buồn cô đơn và trống vắng. Âm thanh tiếng cá "đớp động dưới chân bèo" đã làm nổi bật khung cảnh tịch mịch của chiếc ao thu. Cảnh vật như luôn luôn quấn quýt với tình người.
Phân tích độ ẩm một cách nhanh chóng và trả kết quả chính xác, độ bền cao thích hợp trong công nghiệp và nông nghiệp với độ chính xác lên đến 0,1 % Tính năng nổi bật của Cân phân tích ẩm Ohaus MB25 Màn hình LCD đèn nền dễ đọc Kết quả chính xác cao đạt được có độ chính xác cao 0.1% (0,01g) Sử dụng công nghệ đèn hồng ngoại (infrared)
Tủ thử nghiệm nhiệt độ - độ ẩm hai buồng Xem thêm Phòng thử nghiệm Walk-in chamber Walk-in chamber được phát triển cho các ứng dụng thử nghiệm mô phỏng các tác động của một loạt các điều kiện nhiệt độ và độ ẩm đối với sản phẩm hoặc vật liệu, giúp kiểm tra độ bền thời tiết, tuổi thọ hay thời hạn sử dụng, xác định ngày hết hạn của các loại sản phẩm.
Phân tích tâm trạng của tác giả qua bài thơ Thu điếu. HOC24. Lớp học. (Thu vịnh) Uống rượu mùa thu (Thu ẩm) ta càng thấy rõ tâm trạng thời thế của một tâm hồn thanh cao Nguyễn Khuyến, ở bài Vịnh mùa thu, tác giả sống trong tâm trạng buồn đến thẫn thờ, ngơ ngẩn
HMTTi. Mùa thu ở đất Bắc là khoảng thời gian kết thúc cái oi nồng của mùa hạ, chưa kèm theo mưa dầm gió bấc của mùa đông. Mùa thu đẹp vì có những đêm trăng vằng vặc, những ngày xanh thắm tuyệt vời. Đối với các nhà thơ cận đại, kể cả các nhà Thơ mới nữa thì mùa thu là mùa của cảm xúc, của thương nhớ. Trong làng thơ Việt Nam sau Nguyễn Khuyến, Tương Phố, Tản Đà, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu... đều có những bài thơ thu nổi tiếng. Tuy vậy, giữa Tam nguyên Yên Đổ và các nhà Thơ mới đang có một khoảng cách. Thơ thu Nguyễn Khuyến là thơ của làng cảnh Việt Nam đậm đà chân thực dù tác giả có gửi gắm vào trong thơ ít nhiều tâm sự. Thơ của các nhà Thơ mới từ Giọt lệ thu Tương Phố, Tiếng thu Lưu Trọng Lư đến Đây mùa thu tới Xuân Diệu chỉ mượn cảnh thu, sắc thu, màu thu, âm thanh mùa thu để gửi gắm tâm trạng đượm buồn hay lưu luyến bâng khuâng trước đất trời đã chuyển sang thu. Chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến là hiện tượng độc đáo và là cống hiến xuất sắc của nhà thơ. Cả ba bài thơ đều viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Mỗi bài thơ là một phác thảo với nét bút của nền hội họa phương Đông, không rườm rà lòe loẹt mà cũng không gò bó khuôn sáo. Nhà thơ - họa sĩ họ Nguyễn đã đưa chúng ta về một vùng chân quê quanh năm ngập nước của đất Hà Nam đầu thế kỉ này vào độ thu sang. Thu vịnh phác họa khái quát những đặc điểm nổi bật về mùa thu. Thu điếu dừng lại ở một không gian và thời gian cụ thể trên một ao thu, vào một chiều thu, một ông già trên chiếc thuyền câu cá thả mồi đợi cá. Thu ẩm quan sát cảnh thu trong nhiều thời điểm khác nhau để thâu tóm những nét nên thơ nhất. Cảnh thu trong Thu vịnh đã được nhà thơ phác họa như thế nào? Phần lớn dung lượng bài thơ 6/8 câu là thơ tả cảnh. Biên độ không gian và thời gian không hạn chế một buổi sáng, một cảnh chiều, một đêm trăng đượm màu thu. Ta vẫn bắt gặp trời câu 1 và 2, nước câu 3, trăng câu 4, hoa câu 5, có điểm xuyết âm thanh vọng lại từ không trung cao vút, nhưng điệu thơ, hồn thơ thì đã vượt khỏi khuôn sáo kiểu tứ thời, tứ thú, tứ quý... của nét bút thơ và họa cổ điển. Đối chiếu với trời thu là sông thu vào sáng tinh mơ, lúc màn đêm đã vén hay vào lúc buổi chiều tà, lúc bóng ô vừa ngậm non đoài, thời điểm long lanh đáy nước in trời; nước biếc dội lên màu xanh thơ mộng tạo nên ảo ảnh màn khói mênh mông mà các nhà thơ cố điển thường gọi là yên ba giang thượng khói sóng trên sông. Trời thu và nước thu. Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc trời nước một màu là như vậy. Sau thu thiên, thu thuỷ là thu nguyệt. Trăng thu sáng dịu trong trẻo tuyệt trần. Xưa nay trăng vốn là bạn của thi nhân. Trăng là kẻ đồng hành Chè tiên, nước ghín, nguyệt đem về Nguyễn Trãi; Một trăng, một bóng một người hóa ba Nguyễn Huy Tự. Trăng là người chứng giám Vầng trăng vằng vặc giữa trời, Đinh ninh hai miệng một lời song song Nguyễn Du. Có khi trăng là kẻ thọc mạch Gương ngà chênh chếch dòm sao Nguyễn Du. Nguyễn Khuyến không cài song để đón trăng và ngắm trăng, chẳng biết trăng ở đây có đòi thơ Tam nguyên Yên Đổ như nó đã lọt qua cửa sổ đòi thơ Hồ Chí Minh Trăng vào cửa sổ đòi thơ Nhật kí trong tù. Hẳn là chỉ có trăng thu mới thân quen với con người đến thế! Bây giờ đến hoa thu Mấy chùm trước giậu hoa năn ngoái, ý nhà thơ muốn nói Mấy chùm hoa trước giậu đã nở hoa từ năm ngoái nay lại đã trổ bông chăng? Và hoa thu chỉ là hoa cúc, một trong bốn loài hoa quý lan, sen, cúc, mai chọn mùa thu để trổ hoa. Điểm xuyết cảnh thu là tiếng ngỗng trời từ từng trên không xa tít vọng lại. Âm thanh không líu lo như con chim oanh học nói trong tiết xuân sang Truyện Kiều mà chỉ thoáng qua như nâng thêm tầm cao rộng của không gian; hẳn là đàn ngỗng bay nhanh về phương nam để tránh rét, thường bắt gặp trong kì thu muộn. Nhân hứng mà tác giả đã vẽ xong bức tranh thu. Say theo cảnh trí thơ mộng nhưng rồi chợt tỉnh. Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào - ông Đào Bành Trạch trao ấn từ quan từ hồi còn trẻ, trở về vui với cỏ hoa và non xanh nước biếc. Nguyễn Khuyến cũng đã vứt miếng đỉnh chung về ở ẩn tại quê nhà. Có lẽ danh nho Nguyễn Khuyến cũng đã vứt miếng thẹn với ông Đào bởi vì ông tự hào cho là mình từ quan hơi muộn? Với Thu vịnh, ta cảm thấy thu bằng nhân hứng chung mà nhà thơ để lại; với Thu điếu chúng ta có một thú vui nhỏ mà cũng rất hấp dẫn. Nơi quê hương nhà thơ trước đây lắm ao, lắm vũng. Có lẽ không riêng gì Nguyễn Khuyến mà dân quê cả vùng, nhất là các ông già, lúc rảnh rỗi thường lên thuyền nan ngồi thả mồi đợi cá, coi đó là một lạc thú tiêu khiển chăng? Đối với cụ Tam Nguyên mùa thu câu cá quả là một lạc thú. Ông đẩy thuyền ra xa bờ để được đắm chìm trong thiên nhiên bao la, trời nước một màu. Chỉ có câu kết nói đến chuyện thả câu, bài thơ chủ yếu ghi nhận những diễn ra quanh mình. Ở đây mọi chi tiết đều được chắt lọc sao cho mỗi cảnh sắc chỉ cần điểm một nét, cộng hưởng thành màu sắc thu đích thực và độc đáo. Ông kết hợp tuyệt diệu hình ảnh và từ ngữ. Cả bức tranh có vẻ tĩnh lặng nhưng từng chi tiết thì động và gợi cảm. Ao tliu lạnh lẽo nước trong veo nước tinh khiết và lạnh gây cảm giác khẽ rùng mình. Thuyền câu vốn nhỏ bé khi nhập vào không gian bao la càng trở nên bé xíu, bé tẻo teo. Ngư ông dường như cảm thấy mình quá bé -trước cái tối vĩ đại của tạo hóa! Thuyền vừa xa bờ, cảnh vật dẫn đến một cảm giác thu mới phảng lặng, trong xanh vốn là đặc tính của mặt nước ao thu, hồ thu. Chỉ thế mà sau này Tản Đà viết Trời xanh xanh, nước xanh xanh, khói lam xây thành. Màu biếc xao động khi gió thu khẽ khàng lướt qua. Hơi gợn tí nhưng cũng đủ mạnh để đưa chiếc lá già của cây cao gần bờ lìa cành đưa vèo xoay xoay giữa không gian theo chiều gió... Gió thu là như vậy. Bình giảng hai câu 3 và 4, Xuân Diệu đã viết “Thật tài tinh! Nhà thơ đã tìm được cái tốc độ bay của lá, vèo, dễ tương xứng với cái mức độ gợn của sóng tí”. Tác giả Đây mùa thu tới rõ ràng phát hiện đầy đủ tài năng nghệ thuật của Nguyễn Khuyến. Chắc là sau khi đã buông câu, nhà thơ mới có dịp ngẩng đầu nhìn trời và làng mạc vây quanh. Trời thăm thẳm một màu xanh. Vài đám mây bạc lững lờ trôi như tôn thêm độ cao xa của không gian Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt. Đường đi lối lại trong thôn uốn lượn vòng vèo, không ồn náo nhiệt như những ngày mùa mà êm đềm u tịch... Nhà thơ tựa gối ôm cần chìm đắm vào cảnh vật tựa sống trong mơ... Câu kết thúc Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Tiếng động của cá đớp mồi đã trả nhà thơ về cõi thực. Nguyễn Khuyến là ông ngư trên chiếc thuyền nan mỏng manh. Vớỉ Thu ẩm, nhà thơ Hà Nam đưa chúng ta về nhiều thời điểm khác nhau trong nhiều ngày để cảm nhận vẻ đẹp mùa thu. Mở đầu bài thơ, tác giả nói về một ngôi nhà xuềnh xoàng ở tận sâu trong làng Vị Hạ, nơi cụ thượng quan thường độc ẩm để tìm cách lãng quên thế sự; bởi vì người xưa đã nói chỉ có rượu mới phá được câu thành sầu. Từ năm gian nhà cỏ này ông nhập vào cảnh thu và quan sát những nét thu khi về chiều, vào đêm tối hay buổi trăng thu viên mãn. 27iỉ/ ẩm thường diễn ra trong ngôi nhà này vào những thời điểm kể trên. Không có bóng dáng buổi mai hồng hay thời chính Ngọ trong thơ thu. Phải chăng những thời điểm đó không hợp với tâm trạng của nhà thơ? Hai buổi đêm và một buổi chiều lần lượt xuất hiện trong Thu ẩm. Một đêm không trăng dày đặc bóng tối bao trùm lấp đường ngõ, lập lòe ánh sáng đom đóm vây bủa đường thôn Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe. Một đêm khác trăng soi vằng vặc, bóng trăng vàng từ mặt nước ao lóe ra, bốn chữ một gợi chất vàng [đang dàn trải] ba dấu sắc khứ thanh gợi ánh bắn đi loe lại [vòng tròn lan toả] Xuân Diệu. Nguyễn Khuyến dùng thần bút để cực tả đêm thu. Một buổi chiều nhẹ thênh từ nhà cỏ hay từ bếp nhà ai tỏa ra làn khói lam chiều? Một nét thân thương và trìu mến biết bao! Và một buổi chiều khác không còn tầng mây lơ lửng, chỉ có da trời ửng màu biếc bao la vô hạn. Nét phác họa đặc thù này vốn là sở trường của Nguyễn Khuyến. Phần kết, tác giả đã gửi gắm ít nhiều tâm sự Mắt lão không vầy củng đỏ hoe... Rượu năm ba chén đã say nhè. Đâu phải vô cớ mà mắt lão Nguyễn đỏ hoe. Cũng không phải vô cớ mà lão uống ít say nhiều say không tự chủ được sinh lè nhè. Ông uống rượu để tiêu sầu nhưng sầu đâu có dứt! Trong bộ ba thơ thu tuy tác giả không trực tiếp nói đến nhưng vẫn không sao che giấu nổi tâm sự nước non đầy vơi dường như chi phôi cả cuộc đời và cảm hứng thơ văn của tác giả. Quý thay Nguyễn Khuyến! Ba bài thơ thu là những viên ngọc quý trong vườn thơ Việt Nam. Nó đậm đà màu sắc quê hương đất nước. Hình tượng và ngôn ngữ thơ đạt đến đỉnh cao của sự giản dị mà đầy chất thơ. Từ nét bút tạo hình đến các thủ pháp nghệ thuật khác như sử dụng từ ngữ trau chuốt, chính xác, đối ngẫu rất chỉnh, gieo vần phong phú độc đáo kể cả từ vận, kết hợp nhạc điệu và âm thanh tinh tế... cả ba bài đều viết theo thể thơ Đường hoàn chỉnh nhưng khi đọc không có cảm giác đó là thể thơ ngoại lai. Nối gót nữ sĩ Hồ Xuân Hương và các nhà thơ Nôm lớp trước, Nguyễn Khuyến đã góp phần Việt hóa thể thơ ngoại nhập này. Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm xứng đáng được trao giải nhất trong toàn bộ thơ về làng cảnh Việt Nam.
Một trong số bài thơ đặc sắc viết về mùa thu trong chùm ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến phải kể đến Thu ẩm Uống rượu mùa thu, các em phân tích bài Thu ẩm để hiểu hơn về nội dung tư tưởng đặc sắc cũng là nỗi lòng của nhà thơ gửi gắm qua tác phẩm đã được chuyển tải qua bút pháp nghệ thuật thơ đầy độc đáo, tiêu biểu. Bài viết liên quan Phân tích khổ bốn trong bài Đây mùa thu tới Xuân Diệu Ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến Phân tích bức tranh mùa thu qua bài Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến Phân tích bài Thu vịnh Phân tích hình ảnh mùa thu trong 3 bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến Đề bài Phân tích bài Thu ẩmBài văn mẫu Phân tích bài Thu ẩmBài làmNguyễn Khuyễn là một nhà thơ tài năng, cốt cách thanh cao, một lòng yêu nước thương dân, từng từ bỏ chốn quan trường vốn là nơi có thể tu chí lập nghiệp vì chán ghét chính quyền thực dân Pháp và bộ máy nhà nước phong kiến thối nát. Ông có một sự nghiệp thơ từ đồ sộ bao gồm cả chữ Hán và Nôm, trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến chùm thơ thu bằng chữ Nôm và Thu ẩm là một trong ba bài thơ nức danh đề "Thu ẩm" đại khái được hiểu là mùa thu, uống rượu, uống ở đây không phải là nốc ừng ực cả chai, cả bầu mà là sự nhâm nhi thưởng thức đầy văn nhã của một thi sĩ nhân cảnh mùa thu trữ tình. Hai câu đầu như sau"Năm gian nhà cỏ thấp le te,Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè."Khác với Thu vịnh, cảnh mùa thu của Thu ẩm lại hiện lên trong đôi mắt của vị thi nhân ngà ngà men rượu là khung cảnh tối tăm, im ắng, đậm chất làng quê bình dị với "Năm gian nhà cỏ thấp le te". Nơi đây cũng chẳng sáng bừng ánh đèn như chốn phồn hoa kinh thành mà thay vào đó là những con "ngõ tối" cùng với ánh sáng "lập lòe" của đom đóm đang dạo đêm kiếm bạn. Là những màn sương đêm giăng "phất phơ" như màu "khói nhạt" bên lưng giậu, là hình ảnh "bóng trăng loe" nhàn nhạt đang "lóng lánh" trên mặt ao phẳng lặng trước sân nhà. Và hơn tất cả bầu trời mùa thu vẫn luôn là điểm nhấn đặc sắc với một màu "xanh ngắt" nền nã, trong trẻo, như được ai dồn hết cả tâm sức mà nhuộm lên. Trái ngược với cái màu xanh thanh mát của trời thu là sắc "đỏ hoe" ấm nóng trong đôi mắt của người đang âm thầm thưởng rượu, cảm nhận cái cảm giác được thơ đặc biệt ở chỗ trong sáu câu thơ đầu tả cảnh, tả người, nếu tinh ý người ta sẽ nhận ra được những nét bút cao thấp, gần xa, lúc đậm nhạt. Thấp trong "Năm gian nhà cỏ thấp le te", thấy được độ sâu của bóng "đêm sâu" dài hun hút, cũng thấy cả sương khói nhạt nhòa vương bên giậu cúc tần trồng trước nhà, lại thấy được cả cái màu "xanh ngắt" đậm đà trên nền trời cao thăm thẳm. Rồi cả cái mỏng nhẹ của ánh trăng "lóng lánh" khi bóng trăng phủ lên mặt ao, "loe" ra một màu nhàn nhạt như dát vàng. Đến câu "Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe", ta lại chợt mường tượng ra một đôi mắt hơi sâu, chứa đựng trong đó là một cánh cửa tâm hồn mơ màng trong men rượu, say trong cảnh mùa thu thanh tĩnh, dịu hai câu thơ cuối"Rượu tiếng rằng hay hay chả mấyĐộ năm ba chén đã say nhè"Đây là lời thi nhân, nhận xét vu vơ về rượu, nhà thơ thường nghe người đời ca tụng rượu là thú vui tao nhã, uống vào khoan khái tâm hồn, nhưng với nhà thơ ông lại thấy "hay chả mấy", ý bảo chẳng như lời đồn, làm chi có thứ tuyệt diệu thế. Thú vị hơn, thi nhân cũng không phải người biết uống rượu, thế nên "Độ năm ba chén đã say nhè", đôi khi ta suy nghĩ rằng liệu có phải thi nhân lần đầu hoặc hiếm khi uống rượu không nhỉ? Nếu vậy thì cớ sự nào khiến nhà thơ tìm đến rượu? Xưa nay người ta vẫn thường ví, uống rượu, câu cá, làm thơ là ba thú vui ta nhã của những kẻ ẩn dật, thong dong hay uống rượu, ngắm hoa, vịnh trăng là thú vui thanh cao tao nhã mà văn nhân, thi sĩ hay làm. Ở đây nhà thơ say nhưng cái cốt cách văn nhã, quân tử vẫn cò đó, chỉ bằng một từ nhẹ nhàng "say nhè", say nhưng không làm ồn ã, náo động mà chỉ đơn giản là yên ắng, âm thầm ngả lưng xuống chiếu, mở đôi mắt đỏ hoe ngắm trăng ngắm trời rồi thiu thiu vào giấc ngủ. Cái khung cảnh uống rượu của Nguyễn Khuyến khiến chúng ta liên tưởng đến sự cô đơn trống vắng trong từng cảnh vật và cả trong tâm tưởng của nhà thơ. Bởi chỉ nhìn phong thái uống rượu ta cũng đã nhận ra Nguyễn Khuyến buồn, thứ nhất là buồn trước thế sự đổi thay, đất nước loạn lạc, tiếp nữa là buồn trước cảnh cô đơn của bản thân khi những người thân yêu lần lượt ra đi trước, chịu cảnh kẻ đầu bạc tiễn người đầu xanh. Còn một mình nhà thơ ở lại sống lay lắt với những chứng bệnh tật tuổi già, chẳng còn cách nào để quên, ông bèn tìm đến rượu, bởi với ông chỉ vài ba chén đã say, mà say thì ngủ, ngủ thì không nhớ, không sầu. Thật xót xa cho bậc quân tử lại tài năng mà gặp thời cuộc xui rủi, nhiễu ẩm của Nguyến Khuyến là cảnh thu, chén rượu đắng cay của thi nhân trước khốn cảnh cuộc đời. Cả bài thơ ngoại trừ nhan đề, chẳng ai thấy tác giả nhắc đến chữ "thu" nào nữa cả, nhưng đấy lại là cái hay và độc đáo của một bài thơ tưởng không phải mùa thu mà lại là mùa thu. Một mùa thu nhẹ nhàng, trầm lắng, man mác nỗi buồn, nỗi cô đơn của thi nhân, qua đó cũng thấy được sự tinh tế và tài năng trong phong cách làm thơ của Nguyễn Khuyến. Thu ẩm là một trong số những tác phẩm nổi bật của Nguyễn Khuyến, ngoài bài làm văn Phân tích bài Thu ẩm, các bạn cũng có thể tìm hiểu thêm những tác phẩm nổi tiếng khác của nhà thơ như Thu điếu, Câu cá mùa thu, Bạn đến chơi nhà, Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư, Hội Tây. Hay cả các bài làm văn mẫu Phân tích bài Thu vịnh, hay cả các phần Soạn bài Thu ẩm, Soạn bài Thu vịnh. Rất nhiều những tài liệu hữu ích hi vọng sẽ hỗ trợ cho quá trình học tập của các bạn học sinh hiệu quả nhất.
Phân tích Thu ẩmTâm trạng của nhà thơ trong bài Thu ẩmThu ẩm hay còn gọi là Mùa thu uống rượu là một tác phẩm thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Cùng với Thu điếu và Thu vịnh, Thu ẩm đã đưa người đọc trải nghiệm những cung bậc cảm xúc khác nhau về mùa thu của đồng bằng Bắc bộ khi xưa. Vậy tâm trạng của nhà thơ trong bài thơ Thu ẩm gợi cho anh chị suy nghĩ gì? Mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây để cùng cảm nhận về tâm trạng của nhà thơ trong bài Thu tích bài thơ Thu vịnh 3 mẫuNăm gian nhà cỏ thấp đọc hiểuQua bài Thu ẩm của Nguyễn Khuyến. Tâm trạng của nhà thơ trong bài thơ gợi cho anh chị suy nghĩ gì?Trong bài thơ Thu ẩm, nhà thơ Nguyễn Khuyến không đạt được ước nguyện hưởng thụ thú vui tao nhã khi về quê ở ẩn. Hình ảnh thơ "mắt không vảy cũng đỏ hoe" gợi lên tâm trạng có phần suy tư, đau xót, bâng khuâng không rõ ràng của chính nhà thơ. Dù cho nhà thơ có thưởng thức rượu nhưng cũng chẳng thể hưởng thụ trọn vẹn và thư thái tâm hồn. Tâm hồn nhà thơ dường như vẫn luôn có những lợn gợn và lo lắng, suy tư không rõ ràng. Đó là tâm trạng của một nhà nho yêu nước nhưng vẫn dành tâm trạng cho đất nước. Một nhà nho ở ẩn nhưng vẫn chẳng thể dành trọn tâm trạng thư thái mà vẫn luôn đau đáu, bâng khuâng những nồi niềm không rõ ràng dành cho đất tích bài Thu ẩmHình như trong thi ca - nhắc đến mùa thu là nhắc đến nỗi buồn - nỗi buồn trải ra với đầy đủ cung bậc từ buồn thương, buồn nhở, buồn man mác... Nhưng với mỗi thi nhân, nỗi buồn lại gắn với một tâm sự khác nhau. Đến với Thu ẩm của Nguyễn Khuyến - nhà thơ của làng cảnh Việt Nam - người đọc lại được chiêm ngưỡng một bức tranh thu với với đủ sắc màu và âm thanh dưới cái nhìn, dưới con mắt của một thi nhân, của một con người đang đơn độc nâng chén với cuộc đời. Nhan đề “Thu ẩm” - mùa thu uống rượu - là nhãn tự, là nơi nói lên nội dung chính của bài thể nói, trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, chỉ có bài Thu điếu là nhất quán về không gian, về thời gian. Còn ở bài Thu vịnh và Thu ẩm khó có thể xác định một không gian, thời gian cụ thể nào. Có thể nhà thơ Nguyễn Khuyến uống rượu làm thơ trong một đêm thu nào đó nhưng cảnh thu không nhất thiết là cảnh đêm thu. Khi cái say men đã làm thi nhân hơi chếnh choáng thì các hình ảnh lần lượt hiện về trong tâm trí dệt nên bức tranh thu đa bằng bút pháp hiện thực quen thuộc, bằng lời thơ bình dị, Nguyễn Khuyến mở đầu bài thơ bằng cảnhNăm gian nhà cỏ thấp le teNgõ tối đêm sâu, đóm lập nhà thơ đang uống rượu làm thơ không phải là thư phòng, thư sảnh của lầu son gác tía nào mà chỉ là ngôi nhà cỏ đơn sơ bình dị nơi thôn dã, một ngôi nhà lợp bằng rơm rạ “thấp le te”. Từ nơi ấy thi nhân nhìn ra chỉ thấy màn đêm sâu thẳm. Đó là một đêm tối gợi lên chiều sâu không cùng, tối tăm, ánh sáng đom đóm mới lập lòe như thế. Trong đêm thu trời tối, Nguyễn Khuyến trầm ngâm bên chén rượu, những cảnh thu ở nhiều nơi cứ lập lòe ẩn hiện trong tâm trí của thi nhân. Đó là cảnh chiều thu quê hương yên ả, đầm ấmLưng giậu phất phơ màu khói là cảnh đêm trăng mùa thu được cảm nhận từ phía ao nhà “Làn ao lóng lánh bóng trăng loe”. Đó là cảnh mùa thu trong một ngày nắng đẹp “Da trời ai nhuộm màu xanh ngắt”. Cảnh trong tâm tưởng mà rất thực, rất bình dị. Đó là cảnh quê, hồn quê từ lâu đã thấm sâu, hòa nhập vào tâm hồn Nguyễn Khuyến để khi làm thơ thi hứng lại gọi về. Trăng mùa thu là thi liệu quen thuộc nhưng thi liệu ấy lại trở nên mới mẻ sinh động lạ thường khi được nhìn qua đôi mắt của thi sĩ làng quê Yên Đổ. Nhà thơ Xuân Diệu cho đây “là một câu thơ hiếm có”, một phát hiện của nhà thơ có tài “... câu Làn ao lóng lánh bóng trăng loe, là của một thi sĩ thật có tài, bóng trăng vàng từ mặt nước ao sáng lóe ra, bốn chữ khả năng làn, lóng, lánh, loe gợi chất vàng nước kim loại, ba dấu sắc khứ thanh lóng, lánh, bóng gợi ánh bắn đi; từ loe, âm oe gợi cái gì tròn tròn xoe như cái ao chẳng hạn”. Xuân Diệu đã phân tích rất tinh tế khả năng gợi tả của ngôn ngữ ở phương diện ngữ âm. Nhưng để có cái hay, cái đẹp, cái độc đáo ấy trước hết là ở cách nhìn, ở hướng tiếp cận. Thi sĩ bao đời nay miêu tả trăng thu. Nhìn trăng qua ao mới có vẻ đẹp lóng lánh như thế, trăng từ trong ao hắt ánh sáng lên mới tạo ra những chùm sáng lòe như thế. Một thi sĩ tài năng thì không có đề tài nào là mòn cũ, không có câu chữ nào là mất đi sức ẩm là mùa thu uống rượu mà mãi cuối bài thơ mới thấy hình ảnh người uống rượu xuất hiệnMắt lão không vầy cũng đỏ hoeRượu tiếng rằng hay, hay chả mấyĐộ năm ba chén đã say là chân dung tự họa của nhà thơ Nguyễn Khuyến trong những năm tháng ẩn dật ở quê nhà. Nỗi niềm gì đang xót lòng xót dạ người nho sĩ ấy đến mức mắt đỏ hoe, rớm máu? Từ đôi mắt, người đọc nhìn thấu nỗi buồn đau của cụ Tam Nguyên. Đã từng đỗ đầu thi hương, thi hội đã từng được vua ban chức này tước nọ mà Nguyễn Khuyến không chút đắc ý về cuộc đời mình. Có lúc ông còn thấy việc học cũ là viển vông vô ích, việc làm quan trong thời buổi ấy là nỗi nhục. Tưởng là trở về vườn xưa chốn cũ để thanh thản nỗi lòng, nào ngờ đâu lòng vẫn nặng buồn đauNgọn gió đông ngoảnh lại lệ đầm khănTình thương hải tang điền qua mấy lớp.Trở về vườn cũĐể dịu bớt cơn đau, để khuây khỏa nỗi buồn, Nguyễn Khuyến đã làm bạn với túi thơ, bầu rượu. Ở Trung Quốc có nhà thơ Lí Bạch làm nhiều bài thơ về rượu, ở nước Nam ta không có ai nói về rượu trong thơ nhiều như Nguyễn Khuyến. Nhà thơ hay uống rượu nhưng chả uống được nhiều. Người ta uống rượu để mà quên, để mà say còn Nguyễn Khuyến uống rượu lại càng nhớ, lại càng buồn. Cái tôi trữ tình của nhà thơ trong bài Thu ẩm bề ngoài thì có vẻ say nhè nhưng thực chất là rất tỉnh. Say nhè để quên mọi chuyện nhưng nhà thơ không quên được nỗi đau buồn về non sông đất tranh thi nhân uống rượu trong đêm thu khép lại với những vần thơ đầy xúc động. Có bài thơ, ngoài nhan đề Thu ẩm - chẳng có thêm một chữ “thu” nào, thế mà hồn thu, hơi thu lan tỏa khắp không gian, thấm vào vạn vật và dư âm thu vẫn lan tỏa mãi trong lòng người đọc. Với Thu ẩm, nhà thơ đã viết nên một áng thơ mang đậm dấu ấn và âm hưởng riêng của một Nguyễn Khuyến tài tình và tinh tế, qua đó bộc lộ tâm sự, nỗi buồn về vận nước. Niềm yêu nước của Nguyễn Khuyến biểu hiện thâm trầm, kín đáo mà không kém phần sâu các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 11 thuộc chuyên mục Học tập của
I. DÀN Ý. 1. Mở bài - Thu ẩm là một trong ba bài thơ thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến - Bài thơ cho thấy dáng thu, hồn thu của làng quê đồng bằng Bắc Bộ; đồng thời thể hiện tâm trạng băn khoăn, u uất của nhà thơ trước tình cảnh đau thương của đất nước. 2. Thân bài + Hai câu đề Ba gian nhà có thấp le te, Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè. - Cảnh thu ban đêm nơi làng quê nghèo khó với những hình ảnh quen thuộc được quan sát và miêu tả qua đôi mắt đầy tâm trạng của thi nhân Ba gian nhà cỏ lợp tranh hoặc rạ, thấp le te là rất thấp, tưởng như bị bóng tối đè nặng nên biến dạng. - Ánh sáng lập loè của đom đóm làm cho ngõ hẹp càng thêm tối và đêm thêm sâu khuya. + Hai câu thực Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn áo lóng lánh bóng trăng loe. - Quan sát và cảm nhận của thi sĩ rất tinh tế sương thu như màu khói nhạt phủ quanh lưng giậu. Giậu là bờ rào bằng cây, thường trồng cúc tần hay dâm bụt. Bóng trăng soi trên mặt ao lăn tăn gợn sóng, lúc tụ lại, lúc tản ra, tạo cảm giác là bóng trăng loe. - Các phụ âm đầu 7 đứng gần nhau Làn, lóng lánh, loe đặc tả cảnh đó và thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Khuyến. + Hai câu luận Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt, Mắt lão không vậy cũng đỏ hoe. - Đối tượng miêu tả thứ nhất là bầu trời xanh ngắt như chất chứa cái gì đó bên trong, khiến nhà thơ băn khoăn tự hỏi ai nhuộm mà xanh ngắt. Đại từ phiếm chỉ ai lấp lửng một mối hoài nghi không lời giải đáp. - Đối tượng miêu tả thứ hai là chính bản thân nhà thơ Mắt lão không vậy cũng đỏ hoe. Đôi mắt chứa chất đầy tâm trạng. + Hai câu kết Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy, Chỉ dăm ba chén đã say nhè. - Từ hay có hai nghĩa hay uống rượu thường xuyên; hay tức là tửu lượng cao. Ở câu thơ này, từ hay mang nghĩa thứ hai, Rượu tiếng rằng hay nhưng chỉ dăm ba chén đã say nhè. Say do rượu thì ít mà say do tâm trạng thì nhiều. Nhà thơ muốn mượn rượu để quên đi nỗi buồn đang đầy ắp trong tâm hồn. * Nghệ thuật của bài thơ - Bài thơ làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, niêm luật rất chính nhưng vẫn dung dị, tự nhiên. - Nguyễn Khuyến có nhiều sáng tạo trong cách gieo vần và sử dụng từ ngữ, hình ảnh đậm đà tính chất dân tộc. 3. Kết bài - Tâm trạng u hoài của nhà thơ Nguyễn Khuyến thấm đượm vào cảnh vật, đồng điệu với dáng thu, hồn thu của làng cảnh quê hương. - Nhà thơ buồn bã, day dứt khôn nguôi trước tình cảnh nô lệ của dân tộc, đất nước mà mình thì lực bất tòng tâm. Mượn rượu giải sầu mà nỗi sầu càng thêm chồng chất. II. BÀI LÀM Thu ẩm có nghĩa là mùa thu uống rượu. Đây là một trong ba bài thơ Nôm nói về mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến Thu điếu Mùa thu câu cá, Thu vịnh Mùa thu làm thơ, Thu ẩm Mùa thu uống rượu. Chùm thơ này là dáng thu, hồn thu của đồng bằng Bắc Bộ thời xưa. Mỗi bài thơ mang những dáng thu riêng và những nét tâm tình riêng. Thấm đượm vào cảnh vật là tâm trạng băn khoăn, u uất của nhà thơ trước tình cảnh đất nước rơi vào tay giặc. Dáng thu trong Thu vịnh thăm thẳm, xa vời, quen mà lạ. Trời thu thì xanh ngắt những mấy từng cao; khóm tre thu nhỏ lại trong hình ảnh cần trúc; sương như khói phủ thành tầng trên mặt nước ; song thưa để mặc bóng trăng vào ; hoa năm nay bỗng thành hoa năm ngoái, tiếng ngỗng thảng thốt, mơ hồ... Hồn thu như lắng chìm vào bên trong, ẩn chứa ở chiều sâu. Dáng thu, hồn thu ở bài Thu điếu lại chất chứa trong sự thu nhỏ và lặng im của cảnh vật chiếc thuyền cậu bé tẻo teo, nước biếc trên mặt ao chỉ gợn tí, lá vàng khẽ rơi vào không thành tiếng, tiếng cá đớp động rất nhẹ dưới chân bèo. Tất cả đều im lìm, tĩnh mịch. Tưởng chừng như ông cậu cũng hoả đá trong tư thế tựa gối ôm cần. Tâm tư cụ Tam Nguyên ngụ trong sự chờ đợi mỏi mòn giữa không khí yên lặng gần như tuyệt đối. Đối lại với hai bài thơ thu kia mấy dòng như vậy là có ý so sánh để nhìn được rõ hơn dáng thu, hồn thu và tâm tư nhà thơ trong bài Thu ẩm này. Ở đây, dáng thu, hồn thu và cả tâm tư nhà thơ có khác. Cảnh vật vẫn là những cảnh vật quen thuộc. Từ nhà, từ vườn của cụ Tam Nguyên nhìn ra cánh đồng, cái ao, rặng tre, hàng giậu, ngõ xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu, khỏi phủ mặt nước, bóng trăng trong ao. Khác một chút là ở đây, Nguyễn Khuyến không còn là nhà thơ, là ông câu mà là ông già khẽ khà chén rượu giải sầu. Nhưng cũng chính vì cái khác ấy mà cảnh vật dường như biến đổi, đầy bất ngờ và thú vị. Hai câu đề Ba gian nhà có thấp le te, Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè. Nhà tranh mà gọi là nhà có thì giá trị đã hạ xuống một bậc nhưng chữ nghĩa khác nhau chưa mấy. Nhưng thấp le te thì đã rõ ra là lụp xụp và chẳng còn lành lặn, mái tranh đã rách nát, xác xơ đổi dạng. Tiếp theo, ngõ tối và đêm sâu là cảnh bình thường nhưng ánh lửa đom đóm lập loè lúc tối, lúc sáng làm cho ngõ tối và đêm sâu cũng biến dạng. Hai câu thực Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn áo lóng lánh bóng trăng loe. Sương thu lớt phớt như làn khói mỏng phủ lên bờ giậu, khiến cho rằng cây cũng nhạt bớt màu đêm. Đặc biệt tài tình là hình ảnh mặt ao lăn tăn gợn sóng, lóng lánh bóng trăng. Bóng trăng trên mặt nước lúc dồn lại, lúc loe ra, biến dạng liên tiếp. Hai câu luận Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt, Mắt lão không vậy cũng đỏ hoe. Nguyễn Khuyến tả cảnh trời và cảnh mình. Dường như bầu trời và con người đều bị một thế lực vô hình nào đó làm cho biến đổi Da trời không biết ai nhuộm mà xanh ngắt, mắt mình không vậy sao cũng đỏ hoe? Hay là do say rượu ? Say rượu cũng thường đỏ mắt. Chữ ai trong câu thơ lấp lửng một mối hoài nghi. Lấp lửng nhưng không vô ý. Đây cũng là biểu hiện tâm trạng của nhà thơ chăng ? Hay là nó cũng cùng một mạch với cảm nhận hoa năm nay mà nhìn ra hoa năm ngoái và nghe tiếng ngỗng văng vẳng trên không mà giật mình tự hỏi là ngỗng nước nào ? Tâm tư nhà thơ trĩu nặng trước cảnh đất nước bị lũ giặc ngoại xâm giày xéo mà mình thì đau đớn, day dứt không nguôi. Cuối cùng là tửu lượng của nhà thơ cũng chẳng còn bình thường Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy, Chỉ dăm ba chén đã say nhè. Tại sao cảnh vật lại có sự biến hình đổi dạng như thế ? Do người nhìn say rượu chăng bởi khi say thì nhìn một hoá thành hai, thành ba hoặc nhạt nhoà tất cả. Sự vật biến đổi hình dáng, màu sắc, đường nét rối lên, nhoè ra, chập lại, lảo đảo như say. Âm thanh bài thơ cũng theo điệu ấy. Rõ nhất và cũng bất ngờ nhất, thú vị nhất là ở các từ le te, lập loè, loe, đỏ hoe, say nhè. Tất cả các từ quy vào âm chủ đạo là e từ nhe, say nhè mà ra rồi nhoè ra thành nguyên âm đôi oè lập loè, oe loe, hoe, các vần này cũng lảo đảo say theo, say mạnh hơn. Cảnh vật cũng như say ánh sáng đom đóm hoả lập loè, bóng trăng chập chờn loe ra theo làn sóng, mắt người tự nhiên cũng đỏ hoe. Trong câu Làn áo lóng lánh bóng trăng loe có đến bốn tiếng có phụ âm nối tiếp nhau, càng làm tăng gấp bội cái cảm giác ngứa nghiêng, chao đảo không chỉ ở bóng trăng mà ở cả mặt ao, làn nước và từ đó lan toả ra toàn bài để rồi kết thúc bằng hai chữ say nhè. Nhà thơ một mình đối diện với bầu rượu trong đêm thu vắng. Sau dăm ba chén, hơi men đã khơi dậy tâm tư. Nỗi xúc động sâu xa trong tâm hồn nhà thơ thấm vào cảnh vật, đồng điệu với dáng thu, hồn thu. Cái hay, cái tài của bài thơ Thu ẩm là ở đó. Nhà thơ buồn bã, day dứt không nguôi trước vận nước rối ren, đành mượn vài chén rượu giải khuây nhưng càng uống lại càng thấy nỗi niềm đó hiện ra rõ rệt hơn, làm lảo đảo đến cả cảnh vật đêm thu. Đã có lúc không uống rượu và tâm trạng dường như vui hơn, cụ Tam Nguyên tự cười mình và cũng thấy mình chuếnh choáng Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say kia mà!
phân tích thu ẩm